Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2012

PHẠM THÀNH NHÂN : GS Trần Văn Khê / Nhạc Việt và ý chí độc lập dân tộc


Nhạc Việt và ý chí độc lập dân tộc


Lịch sử không phải những kiến thức khô khan, giáo điều. Trong các bộ môn nghệ thuật gần gũi với cuộc sống như âm nhạc, hội họa, thi ca..., tiền nhân luôn gửi đến chúng ta những câu chuyện thú vị và ẩn chứa nhiều bài học.
Trò chuyện với Tuổi Trẻ về lịch sử từ góc tiếp cận âm nhạc, GS.TS Trần Văn Khê cứ đau đáu về việc làm sao để những thông điệp từ quá khứ được gửi gắm vào hiện tại...
Tiếng trống đồng từ thuở sơ khai
* Xin GS bắt đầu từ buổi sơ khai của nhạc Việt. Âm nhạc của chúng ta khi ấy ra sao?
- Nếu xét lịch sử từ thời kỳ cổ đại thì chúng ta thuộc các dân tộc vùng Đông Nam Á chứ không phải vùng Đông Á. Văn hóa của vùng này là văn hóa đồng thau nên tất cả nhạc khí quan trọng nhất đều là những nhạc khí bằng đồng.
Tiêu biểu ta có trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Đông Sơn là thời kỳ người Trung Quốc chưa xâm lấn nước ta. Những hình chạm trên mặt trống đồng Ngọc Lũ không hề có nhạc cụ nào có dây tơ hay sáo vốn là đặc trưng của văn hóa ty trúc mà chỉ có những cây khèn, sênh gõ và những dàn cồng.
Nghĩa là từ thuở sơ khai, người Việt thuộc nền văn hóa đồng thau, khác với văn hóa ty trúc cho đến khi bị xâm lấn, cai trị dưới chính sách đồng hóa văn hóa của Trung Quốc.
Trên chân cột chùa Phật Tích (chùa Vạn Phúc, Bắc Ninh) có chạm hình của những nhạc công thời nhà Lý. Vua Lý Thái Tổ vốn được sinh trong chùa và trong triều đại này Phật giáo là quốc giáo nên nhạc công trong chùa cũng có thể là nhạc công cung đình.
Trong dàn nhạc này có chạm cây sênh, có sáo ngang, sáo dọc, đàn tranh, đàn nhị, có cây đàn giống như đàn nguyệt nhưng lại chỉ có ba dây và có cả đàn tỳ bà như những cây đàn tỳ bà ở động Đôn Hoàng bên Trung Quốc.
Đây chính là ảnh hưởng rõ ràng của Trung Quốc sau cả ngàn năm cố gắng đồng hóa người Việt.
Đến đời nhà Trần, theo sách An Nam chí lược của Lê Tắc thì âm nhạc VN chia thành đại nhạc dành cho nhà vua và tiểu nhạc dành cho quan lại, dân gian. Trong dàn đại nhạc có sự xuất hiện của kèn tất lật (kèn pili) của nhà Đường, có trống phạn cổ, tức trống cơm xuất xứ từ Chiêm Thành. Tức là dù Bắc thuộc, ta vẫn tiếp thu những nền văn hóa khác nhau để chắt lọc ra những nét tinh túy nhất.
Thời này chúng ta chứng kiến tình thương dân, tầm nhìn chiến lược, tài chính trị, ngoại giao của đức vua Trần Nhân Tông. Sự liên kết với Chiêm Thành là để tạo ra một lực lượng đối kháng với quân Nguyên. Nhà vua biết rằng mộng thôn tính nước ta của giặc Nguyên vẫn còn đó dù đã bị đức thánh Trần Hưng Đạo đánh tan tành. Chính từ sau cuộc hôn nhân của Huyền Trân công chúa, văn hóa Việt đã có nhiều sự giao hòa với văn hóa Champa.
Tại Huế có hơi Nam, hơi Oán giống như của người Chăm. Phụ họa cho bài dân ca Ai nhiu lơi của người Chăm là cây đàn cà-ting giống như cây đàn bầu của người Việt. Theo sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn có nhắc đến sứ nhà Nguyên khi sang VN có thấy cây đàn nhất huyền cầm (đàn bầu). Trong bài tường thuật của sứ nhà Nguyên cũng có nói đến chuyện sứ nghe tiếng trống đồng mà sợ đến rụng rời, muốn bạc tóc.
Những thời kỳ rực rỡ của nhạc Việt
* Thưa GS, qua nhiều thời kỳ của âm nhạc VN, GS cho rằng thời kỳ nào là rực rỡ nhất?
- Hãy để tôi nói với các bạn về âm nhạc đời nhà Lê. Sau khi vua Lê Thái Tổ - Lê Lợi chiến thắng giặc Minh, nhà vua bèn giao cho Nguyễn Trãi nghiên cứu và định ra các qui chuẩn cho nhạc cung đình Việt.
Chưa có người nào thuộc giới văn nhân làm quan nói chuyện âm nhạc sâu sắc bằng cụ Nguyễn Trãi. Cụ nói: "Nếu nhân dân không được sung sướng, hạnh phúc thì âm nhạc sẽ ai oán buồn, tức là ta đã mất cái gốc của âm nhạc. Xin bệ hạ hãy nuôi dân, thương dân, để cho trong nước đừng có tiếng ta thán thì ta không mất cái gốc của mình vậy".
Chính cụ Nguyễn Trãi là người đầu tiên nói rằng trong âm nhạc có hình thức bên ngoài, tức nhạc cụ, cách ăn mặc, cách biểu diễn... và cái gốc là tâm trạng đưa ra. Cụ muốn mọi người dân đều hạnh phúc để không có âm ta thán vang lên trong tiếng nhạc.Với cụ Nguyễn Trãi, gốc của âm nhạc chính là nhân dân.
Đến thời vua Lê Thánh Tông, điểm đặc biệt là dần dần giáo phường của dân gian lại lấn vào cả đồng văn, nhã nhạc, nghĩa là sức ảnh hưởng của nhân dân đã đi vào cả nhã nhạc cung đình. Đầu thế kỷ 15, một mặt có những người trong chính quyền vọng ngoại, muốn đem nhạc nhà Minh vào nhạc Việt nhưng cũng có những người như cụ Nguyễn Trãi, Lương Thế Vinh đã chống lại hành động này.
Âm nhạc đến thế kỷ 15 có một sự thay đổi rất lớn. Thay đổi này thật ra không chỉ riêng ở VN mà ở nhiều nước khác cũng nổi lên phong trào xây dựng bản sắc dân tộc. Chẳng hạn ở Triều Tiên, vua Sejong không bằng lòng dùng chữ Hán mà định ra chữ viết riêng cho nước này, thay đổi cả âm nhạc vì không muốn chịu sự ảnh hưởng từ Trung Quốc.
Các samurai Nhật Bản cũng chế ra nhạc sarugaku, dengaku và sau này trở thành kiểu kịch nô. Tất cả những điều đó nhằm chống lại sự bành trướng từ bên ngoài. Cũng thời gian này ở miền Bắc xuất hiện ca trù - thể loại nhạc đặc sắc chỉ của riêng VN và cây đàn đáy.
Theo sách Khâm định Đại Thanh hội điển sự lệ của Trung Quốc, sau khi thắng trận Đống Đa, vua Quang Trung (do một vị triều thần đi thay) sang thăm Càn Long, một dàn nhạc của VN tham gia diễn tấu.
Biên chế của dàn nhạc ấy hoàn toàn giống với biên chế dàn nhã nhạc của chúng ta hiện giờ. Biên chế này nhà Thanh gọi là An Nam quốc nhạc. Sau này khi vua Gia Long lên ngôi, đổi tên nước là VN, dàn nhạc này được gọi là VN quốc nhạc.
PHẠM THÀNH NHÂN (báo Tuổi Trẻ)
Nhạc sử: vấn đề lớn còn bỏ ngỏ
Sự phát triển của âm nhạc VN gắn liền với những sự kiện lịch sử, qua những cuộc trao đổi văn hóa, chịu ảnh hưởng văn hóa. Nhưng dù chịu ảnh hưởng, dù bị cố đồng hóa, âm nhạc Việt Nam vẫn tạo được bản sắc riêng của mình để tiếp tục tiến đến ngày hôm nay. Những cây đàn bầu, đàn đáy, đàn nguyệt Việt Nam hay ca trù, tuồng, bài chòi, chầu văn, nhạc tài tử, cải lương... cho thấy ý chí độc lập của dân tộc ta vững bền qua hàng ngàn năm lịch sử và tôi tin rằng sẽ còn mãi vững bền. Tìm hiểu nhạc sử cũng là một vấn đề lớn mà chúng ta còn bỏ ngỏ. (GS Trần Văn Khê)

Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

"VUA MUỖNG" TRẦN QUANG HẢI biểu diễn nghệ thuật gõ muỗng, báo TUỔI TRẺ, 2011


http://youtu.be/r5u42TM93K8

"VUA MUỖNG" TRẦN QUANG HẢI biểu diễn nghệ thuật gõ muỗng, báo TUỔI TRẺ, 2011  

2 nov. 2012 par
"VUA MUỖNG" TRẦN QUANG HẢI biểu diễn nghệ thuật gõ muỗng, báo TUỔI TRẺ, 2011 do TRUNG UYÊN thực hiện nhân dịp Xuân 2011 cho báo TUỔI TRẺ

"KING of SPOONS" TRẦN QUANG HẢI showed his art of playing Vietnamese spoons on the occasion of New Year 2011 for the newspaper TUỔI TRẺ.
Video clip directed by TRUNG UYÊN



TRẦN QUANG HẢI BIỂU DIỄN ĐÀN MÔI / báo TUỔI TRẺ , XUÂN 2011


http://www.youtube.com/watch?v=QxGtI4mG5q4&feature=share&list=UU-SN-Jnk33GJE3XzQOeTgAw

TRẦN QUANG HẢI BIỂU DIỄN ĐÀN MÔI / báo TUỔI TRẺ , XUÂN 2011  

2 nov. 2012 par
1TRẦN QUANG HẢI BIỂU DIỄN ĐÀN MÔI / báo TUỔI TRẺ , XUÂN 2011
do TRUNG UYÊN thực hiện , báo TUỔI TRẺ

TRẦN QUANG HẢI gave a demonstration of Vietnamese ĐÀN MÔI for the newspaper TUỔI TRẺ on the occasion of the NEW YEAR 2011. Video clip made by TRUNG UYÊN.

“Vua muỗng” Trần Quang Hải, người thể hiện tiết tấu - âm thanh đa dạng nhất từ nghệ thuật gõ muỗng, KỶ LỤC VIỆT NAM



“Vua muỗng” Trần Quang Hải
TTO - Chỉ với hai chiếc muỗng, giáo sư tiến sĩ Trần Quang Hải đã tạo nên nhiều tiết tấu, âm thanh thú vị. Tiếng "đàn muỗng" cùng giáo sư "chu du" khắp nơi và không ngừng làm mọi người thú vị. Tại Việt Nam, ông được Trung tâm Sách kỷ lục Việt Nam xác lập kỷ lục người thể hiện tiết tấu - âm thanh đa dạng nhất từ nghệ thuật gõ muỗng.
Giáo sư tiến sĩ Trần Quang Hải biểu diễn "đàn muỗng" - Ảnh: Trung Uyên 
Xem giáo sư tiến sĩ Trần Quang Hải biểu diễn đàn muỗng (lưu ý bạn đọc không nên làm theo những động tác của nhạc sĩ khi chưa luyện tập và nắm bắt kỹ thuật)
Từ tiếng gõ muỗng trong tủ
Một buổi tối mùa hè, chú bé 6 tuổi Trần Quang Hải tình cờ thấy một nhóm các chiến sĩ kháng chiến quây quần ca hát quanh đống lửa. Một chiến sĩ đánh nhịp bằng hai cái muỗng. Chú bé Hải thích thú liền mon men đến hỏi: "Chú ơi, chú đánh hai cái muỗng sao mà nghe giòn và hay quá? Chú chỉ dùm cháu với". Người chiến sĩ ân cần: "Chú học được khi ở Liên Xô, cháu có thể thử làm bằng cách bẻ cong hai cái muỗng, úp ngược vào nhau, đặt ngón tay trỏ vào giữa hai cán muỗng sao cho hai cán muỗng cách nhau khoảng 2 li rưỡi rồi đánh muỗng lên đùi, lên tay theo những nhịp quen thuộc hay tự sáng tạo thêm".
Giáo sư tiến sĩ Trần Quang Hải biểu diễn đàn muỗng trong chương trình Hội ngộ kỷ lục gia lần thứ 20 vào giữa tháng 12-2010 tại TP.HCM - Ảnh: Hoàng Thạch Vân
Về đến nhà, chú bé Hải xin bà ngoại hai cái muỗng, bẻ cong cán muỗng rồi say sưa gõ đến sưng tay. Người nhà phản đối vì nghe riết muốn điếc tai nên chú bé liền chui vào tủ để gõ muỗng. Nhưng rồi thú vui ấy cũng dần trôi theo tuổi thơ.
Năm 17 tuổi, khi đang ở Pháp, tiếng muỗng tuổi thơ lại vang vọng trong tâm tưởng khi Trần Quang Hải thấy anh chàng người Mỹ tên Roger Mason chơi đánh muỗng. Quang Hải quyết định bỏ ra 3 tháng để luyện tập kỹ thuật đánh muỗng, sáng tạo ra những kỹ thuật đánh mới, tận dụng hết các chi trên cơ thể. Đến khi gặp lại Roger Mason, Quang Hải mời anh cùng đánh muỗng kiểu "đối thoại" và được Roger Mason cùng nhiều khán giả khen tặng không ngớt.
Đến "vua muỗng" và một ước mong
Danh hiệu "vua muỗng" đến với giáo sư tiến sĩ Trần Quang Hải khi ông chiến thắng tại một cuộc thi gõ muỗng khuôn khở Đại nhạc hội dân nhạc tại Cambridge, Anh vào năm 1967. Nếu tính từ lần đầu tiên đến với gõ muỗng từ thưở bé thơ, đến nay, giáo sư Trần Quang Hải đã có hơn 60 năm gắn bó với những giai điệu từ muỗng.
Các động tác khi biểu diễn "đàn muỗng" của giáo sư tiến sĩ Trần Quang Hải - Ảnh: Trung Uyên
Tiếng gõ muỗng của giáo sư đã vang lên trong hơn 1.500 chương trình biểu diễn, buổi sinh hoạt âm nhạc trong trường học; đã đi qua hơn 70 quốc gia, vùng lãnh thổ. Tại Pháp, các em học sinh khi học gõ muỗng sẽ cùng biểu diễn như một dàn nhạc với nhiều loại muỗng khác về chất liệu, kích cỡ.
Giáo sư cho biết: "Chơi với muỗng sẽ giúp các em nhỏ nhận ra rằng những vật dụng gần gũi nhất cũng có thể tạo nên tiết tấu giai điệu và các em hoàn toàn có thể sáng tạo những cách đánh mới hay tiết tấu mới. Tôi mong nghệ thuật gõ muỗng này cũng có thể được giảng dạy trong trường cho các thiếu nhi Việt Nam".
Không chỉ có cách đánh muỗng phối hợp tay với đùi, trượt muỗng trên cánh tay, đánh trên mu bàn tay, trong lòng bàn tay, trên các khớp ngón tay... mà còn cả cách đánh muỗng bằng miệng, phối hợp miệng với tay. Không ít lần vì đánh quá say mê mà giáo sư đánh đến chảy cả máu răng và bị nha sĩ cấm không được dùng miệng chơi đàn muỗng nữa. 
Không ít lần vì quá say mê đánh muỗng mà giáo sư Trần Quang Hải bị đau răng - Ảnh: Trung Uyên
Những tiết tấu của âm nhạc cổ truyền Việt Nam được giáo sư áp dụng vào đàn muỗng. Đã không ít lần, tiếng gõ muỗng ấy đã ngẫu hứng hòa cùng tiếng đàn điêu luyện của giáo sư tiến sĩ Trần Văn Khê - thân phụ của giáo sư Trần Quang Hải.
Yêu tiếng đàn muỗng nên không khó hiểu khi giáo sư Trần Quang Hải có cả một bộ sưu tập muỗng lên đến hơn 400 cái, phần được mua, phần được người dân khắp nơi trao tặng. 
Giáo sư Trần Quang Hải biểu diễn đàn môi - Ảnh: Trung Uyên
Xem giáo sư tiến sĩ Trần Quang Hải biểu diễn đàn môi 
Ngoài đàn muỗng, giáo sư tiến sĩ Trần Quang Hải còn dành nhiều thời gian say mê nghiên cứu phát triển kỹ thuật đàn môi và kỹ thuật hát đồng song thanh (kỹ thuật hát phát ra hai giọng cùng lúc ở hai cao độ khác nhau).
TRUNG UYÊN
Thứ Năm, 03/02/2011, 11:32 (GMT+7)

Chùa Một Cột được xác lập kỷ lục châu Á


Chùa Một Cột được xác lập kỷ lục châu Á
(Kỷ lục) - Ngày 4.5.2006, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam đã xác lập kỷ lục Việt Nam và đề cử đến Tổ chức Kỷ lục châu Á. Sau thời gian thẩm định để xác lập, ngày 10.10.2012, tại Faridabad (Ấn Độ), Tổ chức Kỷ lục châu Á đã xác lập kỷ lục châu Á cho chùa Một Cột: Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất.
Chùa Một Cột có tên chữ là Diên Hựu có nghĩa là phúc lành dài lâu. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, chùa được xây dựng vào nǎm Kỷ Sửu, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo 1 (1049) đời Lý Thái Tông. Vua Lý Thái Tông (1028-1054) chiêm bao thấy Phật Quan Âm trên tòa sen đưa tay dắt vua lên tòa. Khi tỉnh dậy, vua kể lại cho các quan nghe, có người cho là điềm không lành. Sư Thiên Tuế khuyên nhà vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa hồ, làm tòa sen của Phật Quan Âm như đã thấy trong mộng. Chùa xây xong, đài sen nghìn cánh đỡ tòa Phật sắc hồng, trong đặt tượng Phật vàng lấp lánh. Các nhà sư đến làm lễ, đi vòng quanh chùa niệm Phật cầu phúc cho vua sống lâu, vì thế đặt tên là chùa Diên Hựu.


Ảnh: Võ Văn Tường

Trải qua năm tháng, chùa Một Cột đã được trùng tu sửa chữa nhiều lần. Đời Lý Nhân Tông (1072-1128), năm 1080, nhà vua cho đúc chuông treo ở chùa gọi là "Giác thế chung" (chuông thức tỉnh mọi người) và một tòa phương đình bằng đá xanh cao 8 trượng. Nhưng vì chuông quá nặng nên phải để dưới đất, do vậy đánh không kêu. Chỗ ruộng để chuông thấp, có nhiều rùa đến ở gọi là Quy Điền. Khi quân Minh bị nghĩa quân Lam Sơn bao vây ở Đông Quân, Vương Thông đã cho phá hủy quả chuông này để đúc vũ khí (1426).

Năm 1954, trước khi rút quân, Pháp cho tay chân đặt thuốc nổ phá chùa Một Cột. Sau ngày tiếp quản thủ đô (10.10.1954) Bộ Văn hóa đã có một đợt trùng tu lớn, phục dựng lại chùa như hiện nay.
Chùa hiện nay xây dựng vào năm 1955, đài Liên Hoa có kết cấu hình vuông, lợp ngói ta, mỗi chiều dài 3m, bốn mái cong, bốn đầu đao được đắp hình đầu rồng. Trong đài tôn trí tượng Bồ tát Quán Thế Âm. Nhìn toàn bộ đài Liên Hoa như một đóa sen lớn vươn khỏi mặt nước. Toàn bộ đài đặt trên trụ đá có đường kính 1,2m, cao 4m (chưa kể phần chìm dưới đất). Trụ đá gồm 2 khối gắn rất khéo thoạt nhìn như một khối đá liền. Tầng trên đỡ một hệ thống những thanh gỗ tạo thành bộ khung sườn kiên cố đỡ cho ngôi chùa dựng bên trên, khác nào một đóa hoa sen vươn thẳng lên từ mặt hồ nhỏ hình vuông, có xây lan can bằng gạch xung quanh. Một chiếc thang xây dẫn lên chùa. Trên cửa có đề Liên Hoa Đài gợi nhớ sự tích nằm mộng của vua Lý dẫn tới việc xây dựng chùa. Nét độc đáo của kiến trúc chùa Một Cột là toàn bộ ngôi chùa được đặt trên một cột đá.
Đây là một trong những ngôi chùa nổi tiếng và được nhắc đến nhiều nhất trong lịch sử Việt Nam cũng như trong giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Ngày 28.4.1962, chùa Một Cột được xếp hạng Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật quốc gia.
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 17.10.2012
Đơn vị công bố thông tin
Tổ chức Kỷ lục VIệt Nam

Cuộc hội ngộ đầu tiên của 5 nghệ nhân "báu vật sống" Việt Nam


(ĐXKL) Cuộc hội ngộ đầu tiên của 5 nghệ nhân "báu vật sống" Việt Nam
Tối 11.6.2009, lần đầu tiên tại sân Đại triều Điện Thái Hòa, Đại nội Huế, 5 nghệ nhân hàng đầu của làng ca cổ Việt Nam, người nhỏ nhất đã qua tuổi 79 là nghệ nhân Ca trù Phó Thị Kim Đức, hai nghệ nhân Ca Huế Minh Mẫn (84 tuổi) và Thanh Hương (85 tuổi), hai nghệ nhân Nhã nhạc Trần Kích (85 tuổi) và Lữ Hữu Thi (100 tuổi) đã có cuộc hội ngộ với một đêm diễn chưa từng có từ trước tới nay.
Chương trình do Công ty cổ phần truyền thông Vẻ đẹp Việt, Ban tổ chức Festival Nghề truyền thống Huế 2009 và Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế phối hợp tổ chức nhằm giới thiệu và tôn vinh 5 nghệ nhân được coi là những "cây cổ thụ” của âm nhạc cổ truyền và đều là những người hiếm hoi còn giữ được những làn điệu và kỹ thuật tinh hoa gần như đã thất truyền.
Nghệ sĩ ưu tú Phó Thị Kim Đức là danh ca cuối cùng của giáo phường Khâm Thiên và là giọng ca trù tinh hoa bậc nhất Hà Nội đương thời. Bà còn nổi tiếng vì ngón phách điêu luyện, từng được xưng tụng là "tiếng phách trạng nguyên”. Bà là người còn nắm vững nhuần nhuyễn 20-30 làn điệu Ca trù, trong đó một số làn điệu chỉ riêng bà còn giữ được như: Đào luồn kép vói, Hát truyện Phan Trần, 5 điệu Thiên Thai.
Nghệ nhân dân gian Minh Mẫn là bậc thầy trong làng ca Huế hiện giờ. Bà còn lưu giữ được những bài bản ca Huế cổ điển như Nam ai, Nam bìnhTứ đại cảnhvới sở trường ở những bài ca khách như Cổ bản, Phẩm tuyết, Nguyên tiêu, Lộng điệp. Bà là một trong những người hiếm hoi hiện nay có thể ca Cổ bản cả lối sắp và lối dựng, lời cổ của điệu Long ngâm, cùng một số điệu khác như Nam xuân, Ngũ đối thượng, Quả phụ
Hai lão nghệ nhân ca Huế là Minh Mẫn và Thanh Hương 
Nghệ sĩ Thanh Hương sinh ra trong một gia đình làm nghệ thuật dân gian ở Huế. Cũng như bà Minh Mẫn, bà Thanh Hương thuộc thế hệ kỳ cựu vẫn bảo lưu được những kỹ thuật cổ điển của ca Huế trong giọng hát của mình, và những làn điệu ca Huế cổ.
Nghệ nhân Trần Kích chơi thành thạo 7 loại nhạc cụ, gồm kèn đại, kèn lỡ, nhị, nguyệt, tỳ bà, bầu, sáo... cho cả Đại nhạc, Tiểu nhạc, nhạc Phật, và nhạc đệm cho ca Huế. Đến nay, ông đã nghiên cứu cách ký âm hoàn chỉnh, góp phần ghi lại được 30 bài bản về Đại nhạc và Tiểu nhạc. Ông Lữ Hữu Thi là người cao tuổi nhất trong số các nghệ nhân còn lại của dàn nhạc cung đình triều Nguyễn. Trong nhiều loại nhạc cụ mà ông chơi thuần thục: nhị, tam, nguyệt, tỳ bà, địch, phách tiền, tam âm, trống bản… nổi bật nhất là hai loại đàn nhị và kèn bóp. Đến nay ông vẫn còn nhớ và biểu diễn thành thạo tới 20 bài nhạc lễ cung đình, và là người duy nhất còn nhớ được toàn bộ 7 bản Thái cổ dùng trong lễ tế Nam Giao. Từ năm 2003 đến nay, dù tuổi cao sức yếu, nghệ nhân Lữ Hữu Thi vẫn hàng tuần nhờ con cháu chở vào nhà hát Duyệt Thị Đường để truyền nghề cho các diễn viên, nhạc công. 
Hai nghệ nhân Trần Kích và Lữ Hữu Thi

Trong khuôn khổ đêm tôn vinh nghệ nhân, lần đầu tiên nghi thức đốt đình liệu được phục dựng với mười hai cây đình liệu bằng hoa và sáp được thắp lên ở khu vực cầu Trung Đạo. Với mong muốn cầu chúc sức khỏe cho các nghệ nhân, 1.000 bát nến hoa sen được sắp đặt hai chữ Vạn - Thọ tại sân Hạ Đại Triều.

G.H - kyluc.vn

Nhạc sĩ HOÀNG VIỆT /Người soạn bản giao hưởng đầu tiên của Việt Nam


Người soạn bản giao hưởng đầu tiên của Việt Nam
Nhạc sĩ Hoàng Việt tên thật là Lê Chí Trực, sinh năm 1928 tại Chợ Lớn. Thế nhưng ông sinh sống chủ yếu tại quê ngoại ở xã An Hữu, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Với năng khiếu bẩm sinh và niềm đam mê âm nhạc, ông đã biết sáng tác từ rất sớm.
Năm 17 tuổi, ông đã viết các ca khúc: Chí cả, Biệt đô thành, Tiếng còi trong sương đêm… Thời gian công tác ở đoàn văn công Bộ Tư lệnh Khu VIII đóng ở Đồng Tháp Mười, ông cũng đã sáng tác các ca khúc nổi tiếng: Lá xanh (1950), Thành đồng Tổ quốc, Ai nghe chiến dịch mùa xuân… Tiếp sau đó là xúc cảm giữa rừng với bài: Nhạc rừng, Lên ngàn ... Năm 1954, ông tập kết ra Bắc và theo học trường âm nhạc để hoàn chỉnh vốn kiến thức cho mình. Tuy vậy, trong lòng ông luôn hướng về miền Nam với người mẹ, người vợ hiền trước chiến tranh khói lửa, từ đó ca khúc nổi tiếng Tình ca (1957) và Quê mẹ (1958) ra đời. Cũng trong năm 1958, ông được cử sang Bungary học ở Nhạc viện Sophia - Khoa Sáng tác âm nhạc. Được sự hướng dẫn tận tình của giáo sư Goléminoff, ông bắt đầu viết khí nhạc và cuối cùng đã hoàn thành bản giao hưởng Quê hương, trở thành bản giao hưởng đầu tiên của Việt Nam.
Trong tác phẩm này, ông đã sử dụng chất liệu của 9 ca khúc cách mạng và 2 bài dân ca để xây dựng nội dung tư tưởng và ngôn ngữ nghệ thuật. Tác phẩm nêu cao truyền thống bất khuất kiên trung của dân tộc, cùng hiện thực sôi nổi của cuộc đấu tranh giành độc lập. Năm 1964, ông trở về nước và không lâu sau đã có buổi biểu diễn báo cáo bản giao hưởng Quê hương ở Nhạc viện Hà Nội. Bản giao hưởng này không chỉ giúp Hoàng Việt tốt nghiệp hạng ưu Nhạc viện Sophia mà còn được giới âm nhạc trong nước đánh giá rất cao. Hoàng Việt trở về quê nhà Cái Bè với mong muốn góp sức mình vào cuộc đấu tranh của dân tộc. Trong thời gian này, ông vẫn không ngừng sáng tác trong điều kiện vô cùng khó khăn, khắc nghiệt. Sáng ngày 31.12.1967, trong một trận càn của địch, ông đã hy sinh anh dũng ở độ tuổi 39. Ông đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh bởi những đóng góp to lớn của ông cho nền âm nhạc nước nhà.
H.H - kyluc.vn