Hiển thị các bài đăng có nhãn vietnamesemusic. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn vietnamesemusic. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2012

GS TRẦN VĂN KHÊ : TÂM SỰ CÂY ĐÀN ĐÁY


TÂM SỰ CÂY ĐÀN ĐÁY

Các bạn có biết rằng từ lâu tôi có nhiều mặc cảm đối với các bạn nhạc khí Việt Nam được dùng trong đất nước Việt Nam không?
Thứ nhứt, tôi có mặc cảm không “đồng thân, đồng thủ”. Cần đàn so với thùng đàn thì quá dài. Tôi thấy mình lỏng khỏng như cây tre miễu và có rất nhiều người còn cho tôi là thứ “dị hình, dị dạng”.
Thứ nhì, tôi ít được ai biết đến, chỉ có những người sành điệu Ca Trù ở miền Bắc nước Việt, còn từ Thanh Hóa vào Nam chẳng ai biết tôi, duy chỉ có vùng nhỏ tại Phú Nhuận (Saigon) thì tôi được xóm Cô đầu sử dụng.
Thứ ba, trong tất cả các cây đàn chỉ có tôi là bị thiệt thòi, chỉ có kép đàn ông ôm tôi trong tay mà từ mấy trăm năm nay không có một bóng hồng nào nâng niu tôi như đã nâng niu anh đàn Kìm!
Và sau khi đất nước trở lại thanh bình, những nhạc khí khác được đem ra lau chùi và lần lần tham gia vào cuộc sống âm nhạc trong nước. Riêng tôi phải chịu nằm trong xó vì Ca Trù không được đánh gíá đúng mức. Ca nương thường bị coi như một khách “bán phấn buôn hương”. Người thích nghe Ca Trù mang tiếng là “khách làng chơi”nếu không phải “phường trên bộc, trong dâu”.
Trong nước chỉ có cố Giáo sư Nguyễn Hữu Ba là người chụp nhiều ảnh của tôi để đưa vào tư liệu nghiên cứu Âm nhạc Việt Nam của ông. Nhưng ông chuyên về nhạc Huế nên tôi chỉ được xếp vào hàng tư liệu mà không được ông sử dụng. Ngoài Bắc, có nhạc sĩ Đỗ Nhuận tìm hiểu Ca Trù và đã nhờ nhạc sư Đinh Khắc Ban giải thích về những kỹ thuật đặc thù của tôi mà có rất ít cơ hội giới thiệu tôi và nghệ thuật Ca Trù với những người nhạc sĩ khác.
Thuở ấy, ít người nghiên cứu về Ca Trù và không còn những cuộc biểu diễn Ca Trù trong các sinh hoạt tại gia hay trong đình làng. Tôi có cảm giác rồi đây mình sẽ bị chìm trong quên lãng.
Nhưng từ năm 1976, khi Giáo Sư Trần Văn Khê về nước, ghi âm Ca Trù để giới thiệu cho bạn bè thế giới ngang qua đĩa hát mang nhãn hiệu Unesco (Trung tâm văn hóa Liên hiệp quốc) thì tôi mới có dịp được ghi âm vào máy có kỹ thuật âm thanh nổi (stéreo) và trong một số thư viện đại học Âu Mỹ đều có đĩa hát về Ca Trù sánh vai với các truyền thống lớn ở châu Á. Tôi bắt đầu được theo Giáo Sư Trần Văn Khê trong các buổi giới thiệu của ông. Tôi được ông rọi hình cho sinh viên trường đại học Sorbonne Paris, trường đại học Hawaii at Manoa tại Honolulu và nhiều trường khác trên Âu Mỹ. Tuy là ông giới thiệu bằng tiếng Anh và tiếng Pháp nhưng tôi cũng hiểu qua là ông không tiếc lời ca ngợi tôi và bắt đầu từ đó tôi hết bị tự ti mặc cảm, mà có lẽ còn rơi vào trong “tự tôn mặc cảm”. Không thích thú sao được khi ông nói rằng đa số nhạc khí Việt Nam từ các nước khác du nhập vào như chị đàn Tranh, chị đàn Tỳ Bà, anh đàn Nhị đều có gốc từ Trung Quốc, như anh Trống Cơm có gốc từ miền Nam Ấn Độ (trống Mridangam), còn tôi cũng như anh đàn Bầu, hay đàn Độc Huyền có nguồn gốc Việt Nam. Chúng tôi lại có cả một truyền thuyết từ dân gian nói lại sự ra đời của chúng tôi.
          Đờn Đáy và Đờn Bầu (Độc Huyền) có nguồn gốc Việt Nam
Riêng tôi nghe thuật lại thì theo ông Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, dưới đời nhà Lê có ông Đinh Lễ, người có công với vua Lê Lợi, một hôm đi dạo trong một khu rừng nhỏ gặp hai tiên ông (có khi nói rõ ra đó là hai vị trong Bát tiên là Lý Thiết Quải và Lữ Động Tân) cho một miếng gỗ ngô đồng và một bức vẽ hình cây đàn mà nói rằng: “Đây là cây đàn trên thượng giới, con dùng gỗ cây ngô đồng mà đóng cây đàn theo hình vẽ trên đây. Cây đàn đó sẽ giúp con cứu nhân độ thế”.Đinh Lễ nghe theo lời dạy, về đóng một cây đàn, tiền thân của tôi bây giờ, đem ra đàn thử thì chim chóc nghe tiếng đàn đều bay lại đậu trên cây. Khi Đinh Lễ đến bờ sông đàn, thì nhiều loại cá cũng lội đến mà nghe tiếng đàn. Trong làng, khi tiếng đàn của Đinh Lễ vang lên thì dân chúng ai cũng đến mà nghe. Lạ thay, người buồn thấy lòng vui trở lại, người bịnh thì tìm lại được sức khỏe.
Tiếng đồn lan rộng ra các làng gần bên. Khi chàng đến châu Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, ngồi bên suối gảy đàn, dân chúng thấy tiếng đàn linh nghiệm rủ nhau đến trình với quan châu Bạch Đình Sa. Năm ngoài bốn mươi tuổi ông này mới sinh được một con gái đặt tên là Hoa, nhan sắc tuyệt vời. Năm lên mười, Bạch Hoa tiểu thơ một hôm đi chơi với mẹ trúng phong rồi bị câm. Ông bà đã tìm khắp nước mà không có lương y nào điều trị được. Năm cô mười chín tuổi, nhan sắc tuyệt vời mà chỉ buồn là không nói năng gì được. Khi Bạch Công nghe dân chúng bảo có chàng trẻ tuổi có cây đàn mầu nhiệm trị được các bịnh tật, ông cho gia nhân mang lễ vật đến mời chàng Đinh Lễ về nhà để đàn chữa bịnh cho Bạch Hoa. Sau khi thi lễ, chàng so dây và đàn một khúc. Tiểu thư đang ăn cơm sau rèm trúc nghe tiếng đàn bỗng ngưng ăn, lấy hai chiếc đũa gõ lên án thư theo đúng nhịp đàn. Khi tiếng đàn dứt khúc, nàng buông đũa mà nói to lên: “Tiếng đàn hay quá !”. Thị tì báo cho Bạch Công, ông vô cùng mừng rỡ và nài chàng đàn thêm một khúc nữa. Bạch Hoa tiểu thơ lại dùng đũa gõ nhịp. Bạch Công mời chàng vào nhà trong để tương kiến với tiểu thơ. Tiểu thơ đứng dậy chào vui vẻ như gặp người quen đã lâu. Ông bà rất vui khi thấy bắt đầu từ ngày đó, Bạch Hoa bắt đầu nói năng như xưa.
Bạch Công có lần hứa rằng ai chữa cho con gái lành bịnh có thể gả con cho người đó. Khi bàn việc thành lập hôn nhân giữa Đinh Lễ và Bạch Hoa, ai cũng tán thành.  
Lễ vật hoa quả được trưng bày trong phòng hoa chúc sáng choang nhờ hàng trăm ngọn bạch lạp. Khi bước vào phòng, trước một tiểu thư trang sức lộng lẫy, chàng họ Đinh tưởng mình lạc lối đào nguyên, ôm đàn khảy lên một khúc nhạc mừng, miệng ca bài Tân hôn mà hai câu đầu là:
Động phòng hoa chúc dạ
Kháng lệ khánh kỳ duyên
Có nghĩa là :
Trong đêm động phòng hoa và đuốc sáng choang
Mừng lứa đôi sánh duyên đẹp đẽ lạ lùng
Rồi kết thúc bằng hai câu :
Khước giao trần tục phối tiên nga
Bách niên Đinh Bạch nhứt gia
Có nghĩa là :
Xui nên khách trần tục sánh duyên cùng người tiên
Hai họ Đinh và Bạch sum họp một nhà và cùng nhau sống trăm năm.
Bạch Hoa tiểu thơ vừa gõ nhịp, vừa hát theo tiếng đàn. Sau lễ cưới đôi vợ chồng trẻ trở về sống ở làng Cổ Đạm và lập nghiệp nơi đó.
                                             Ca Trù ngày xưa
Thật ra nếu phải lần tìm gia phả, tôi cũng không thể biết ai đã chế tác ra tôi bởi vì theo lời truyền miệng các nghệ nhân trong giáo phường Lỗ Khê thì người đầu tiên chế tạo ra tôi không phải Đinh Lễ mà là Đinh Dự. Đinh Lễ và Đinh Dự cũng đều là người có công với người anh hùng áo vải Lê Lợi đã đánh đuổi quân Minh và lập nên nhà Lê. Giáo Sư Trần Văn Khê khi đi tìm nguồn gốc của tổ tiên tôi đã đọc nhiều quyển sách và đã có ghi lại nhiều truyền thuyết làm cho ông băn khoăn tự hỏi là chân lý ở nơi nào? Khi đọc quyển Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ trong đoạn nói về hát ả đào không thấy nói chi đến nguồn gốc, chỉ có đoạn ghi rằng hát ả đào dưới triều Cảnh Hưng đã thất truyền, sau đến cuối đời Lê chỉ có ả đào già mới hát được những điệu cổ. Nếu đem bắt những ả đào non hát thử thì lè lưỡi xin chịu không hát được”. Cụ chỉ cho biết rằng lối hát ả đào bắt đầu có từ đời Hồng Đức (1470-1497). Đến năm 1919, cụ Hoàng Yến trong khi nghiên cứu âm nhạc tại Huế đã đăng trong Tạp chí của những người bạn cố đô Huế (Bulletin des amis du vieux Huế) số tháng 7 và tháng 9/1919, có nhắc lại việc ả đào làng Cổ Đạm huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, mỗi năm tế tiên sư đều khấn vua Hán Võ Đế, Đông Phương Sóc và Lý Thiết Quải vì căn cứ theo một truyền thuyết thì Lý Thiết Quải là một vị trong Bát tiên đã chế ra cây đàn Đáy. Theo Nguyễn Đôn Phục trong bài khảo luận về “Cuộc hát ả đào” được đăng trong Tạp chí Nam Phong (tháng 4/1923 - trang 277): Khi xưa có bà Mãn Đào Hoa công chúa, con ông Bạch Đinh Xà đại vương  chế ra âm luật và các bộ hát ả đào để dạy đời. Lúc hát ả đào còn thạnh, mỗi năm hai lần vào mùa xuân và mùa thu có hát chầu để tế tiên sư mà tiên sư của ả đào là Đông Phương Sóc và Lữ Động Tân. Trong một loạt bài về hát ả đào đã được đăng trong các số Bách khoa 81- 82, thì năm 1960, sau khi đọc lại một số truyền thuyết về hát ả đào, Giáo Sư Trần Văn Khê đã tỏ ra nghi ngờ về sự xác thực về những truyền thuyết đó. “Đông Phương Sóc là một văn sĩ Trung Hoa đời Hán, Lữ Động Tân là một người tu tiên đắc đạo đời Đường xét ra chẳng có lý gì gán cho hai ông chế ra lối hát ả đào”.
                                        Một canh hát Ả Đào
Nếu theo truyền thuyết của hai tác giả Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề ghi lại thì hai vị tiên ông Lý Thiết Quải và Lữ Động Tân đã hiện ra và bày cho Đinh Lễ tạo ra cây đàn Đáy đầu tiên và như vậy tổ tiên của tôi là người Việt chứ không phải người Hoa thì tôi tạm yên lòng với lập luận của hai tác giả này. Thật ra không ai biết rõ hình thù và kích thước của tôi một cách rõ rệt. Trong những tư liệu còn để lại, Giáo Sư Trần Văn Khê chỉ thấy rằng ông Phạm Đình Hổ có tả hình dáng của tôi như sau :
Đàn Đáy cũng giống như đàn Tàu ba dây (tức là cây đàn Tam) nhưng đáy vuông, dọc đàn dài, trên dọc đàn gắn 16 phím tỷ với đàn 3 dây cũng hơi khác. Khi kép ra hát thì lấy dây lưng điều mà treo đàn ngang lưng để gảy với đào xướng họa, tùy theo giọng hát mau khoan mà ứng nhịp với nhau nhưng tiếng đàn thấp kém không cao hơn tiếng hát được (Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút, tờ 43b và 44a).
Câu dịch trên từ chữ Hán do Đông Châu đã đăng trong Tạp chí Nam Phong tháng 10-1927. Vừa mới nghe qua đoạn này, tôi cũng không hiểu rõ nội dung câu văn chữ Hán do Phạm Đình Hổ viết ra. Giáo Sư Trần Văn Khê cũng như tôi, tìm lại bản gốc chữ Hán để đọc lại thì thấy trong bản chữ Hán có bốn chữ “thăng, giáng, cương, nhu” dịch từ chữ ra là “lên cao, xuống thấp, cứng và mềm” thì Giáo Sư Trần Văn Khê nghĩ rằng có lẽ đó là chữ đàn hay tiếng hát “khi cao, khi thấp, khi to, khi nhỏ” chứ còn “mau khoan” tức là khi mau, khi chậm mà theo thuật ngữ âm nhạc Việt Nam thì nhịp chậm thường gọi là “hoãn điệu phách” còn mau là “cấp điệu phách”.
Phạm Đình Hổ đã miêu tả tôi cùng chung với nhạc khí khác trong một dàn nhạc mang tên là Giáo phường thường được dùng trong Cung đình để thay thế cho hai dàn nhạc Đồng Văn và Cổ nhạc, như vậy tức là cuối đời nhà Lê tôi cũng có mặt trong dàn nhạc Cung đình và khi phụ họa cho ca nương, ả đào cũng có nhiều nhạc khí khác: hai loại trống, trống cơm và trống mảnh (cũng gọi là trống cái), hai loại phách, trường cùng và cái sênh (hoặc sênh tiền), hai loại sáo, trúc và địch quản.
Trường cùng là một cái phách làm bằng tre già, hình dẹp như cây đòn gánh, dài độ ba, bốn thước ta. Phách đó do bà già gõ nhịp(Phạm Đình Hổ, Vũ trung tuỳ bút, bản dịch Đông Châu trang 367).
                                             Phách Ca Trù
Như vậy trường cùng là tiền  thân của cỗ phách mà đào nương dùng ngày nay.
Theo cụ Hoàng Yến, người Nghệ An và Hà Tĩnh đánh đàn Đáy rất hay. Tác giả có kể lại những nhạc công nổi tiếng là: Cửu Xướng, Cửu Ninh và Cửu Đạm.
Càng đọc nhiều bài về nguồn gốc của Ca Trù của các tác giả châu Âu như Gustave Dumoutier, Georges Cordier (Pháp), Gaston Knosp (Bỉ) thì chúng ta càng thêm hoang mang vì những bài nghiên cứu có phần nào phiến diện. Vì vậy, hôm nay tâm sự với các bạn, tôi chỉ muốn nói rõ một điều là tôi tin chắc rằng tổ tiên tôi là người Việt, là Đinh Lễ hoặc Đinh Dự đã chế tạo ra tôi dưới thời nhà Lê tức là thế kỷ thứ XV. Trong giới ca trù có người cho rằng nghệ thuật ca trù có từ đời nhà Lý, tôi sanh sau đẻ muộn, không biết rõ thế nào. Nhưng phần tôi thì tôi chưa thấy những bức chạm trên gỗ hay hình vẽ nào của tôi trước thế kỷ XV. Nghệ thuật ca trù có thể có trước thế kỷ XV, nhưng tôi chỉ biết phận tôi là tổ tiên tôi đã chào đời thừ thế kỷ XV.
Trong chương trình nghiên cứu về nghệ thuật Ca Trù, nhạc sĩ Đặng Hoành Loan cũng ghi lại xuất xứ của cây đàn Đáy theo sách của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề. Trong các nghệ nhân mà nhạc sĩ đã gặp, cụ kép đàn Trần Ngọc Quế (86 tuổi - Hải Phòng) nói rằng: “Trong hát chơi cũng có hai ngón đàn là ngón “mỡ” và ngón đàn “nục nạc”. Ngón đàn “mỡ” thì ít nhấn nhá còn ngón kia thì nhấn nhá nhiều”.
Theo truyền thống xưa mà nhạc sĩ Đỗ Nhuận đã ghi lại, có những câu dạo đàn đủ năm cung: nam, bắc, huỳnh, pha, nao. Khi vào đàn có bốn khổ: sòng, đơn, rải, lá đầu. Tay mặt khảy có tiếng: vê, vẩy, lia,tay trái nhấn có cách “nhấn chùn” rất đặc biệt. Kép đàn ngày nay đã bắt đầu được luyện tập theo lề lối của ngày xưa và tôi hy vọng rằng trong tương lai, tôi sẽ được nói lại những tiếng đặc thù, độc đáo, tuyệt vời của cây đàn Đáy cổ. Theo Phạm Đình Hổ thì ngày xưa, tôi có 16 phím nhưng ngày nay chỉ còn 10 hay 11 phím nhưng với số phím này, những người đàn hay như cụ Nguyễn Phú Đẹ (85 tuổi - Hải Dương) đủ làm cho người nghe thích thú. Ngoài ra, nhạc sĩ Đặng Hoành Loan còn kể tên những nghệ nhân đã gặp sau này tại các nơi. Trong số đó thật ra ít có người còn biết được nghề nghiệp vì nhiều cụ cao niên nhắc lại thời kỳ xa xưa mình đã có dịp hành nghề nhưng sau mấy chục năm bỏ nghề không biết khi các cụ phải đàn cho Đào nương hát có còn giữ phong độ được như ngày xưa chăng? Trong giới trẻ ngày nay, có nhiều người biết đờn theo tiếng ca của Ca nương trong câu lạc bộ ở các tỉnh. Có hai kép đàn Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Mạnh Tiến đã được cụ Phó Đình Kỵ dạy đàn, có thể coi như được chân truyền.
                                    Kép đàn Nguyễn Văn Khuê
Tôi rất ngạc nhiên là có lần tôi được một nhạc sĩ người Anh là Barley Norton ôm tôi trong lòng khảy lên những tiếng đàn phụ họa cho Ca nương Việt Nam. Tôi xúc động vô cùng vì không ngờ một người nước ngoài mà biết cách sử dụng đàn. Trong khi đó, bao nhiêu thanh niên Việt Nam lại thích ôm ghi-ta điện để biểu diễn những điệu nhạc của nước ngoài. Khi có Đài Truyền hình phỏng vấn anh Barley Norton về nghệ thuật Ca Trù thì anh nói từ khi nghe đĩa hát của Unesco về nghệ thuật Ca Trù, giọng hát của bà cụ Quách Thị Hồ, tiếng đàn Đáy của ông Đinh Khắc Ban làm cho anh thích thú Ca Trù và phải sắp đặt thời gian để sang Việt Nam tìm học cho được nghệ thuật đàn cây đàn Đáy. Anh rất tiếc rằng thanh niên Việt Nam không thấy được nét tinh vi và tế nhị của cây đàn Đáy mà bỏ cả tuổi trẻ và công sức để học đàn ghi-ta điện. Sau này nếu các nghệ sĩ đàn Đáy trẻ theo qui luật thiên nhiên sẽ qua đời thì còn ai giữ lại được phong cách đàn Đáy nữa?
                            Tiến sĩ Barley Norton gảy đàn Đáy
Khoảng 10 năm sau này, trong các CLB ở tỉnh và tại Hà Nội có nhiều thanh niên học đàn Đáy, thiếu nữ học ca. Tôi rất sung sướng khi được cùng các bạn trẻ ấy biểu diễn Ca Trù. Tuy ngón đàn của các cậu chưa bằng các nghệ nhân nhưng tôi nghĩ rằng đây là những bước đầu và thế nào trong đám thanh niên yêu thích nghệ thuật Ca Trù sẽ có những “nghệ nhân” trẻ. Trong Nam tại TP.HCM, tôi được một phụ nữ dùng tôi để đàn theo những nghệ sĩ ngâm thơ. Một vài người mộ điệu nói rằng ngón đàn của bà ấy tươi tắn, nghe được, nhưng bà ấy học không có Thầy.
Tại miền Bắc, trong năm 2006, có một ca nương trẻ vừa học bài bản Ca Trù theo truyền thống với bà Nguyễn Thị Chúc ở Hà Tây, vừa học đàn Đáy với cụ Nguyễn Phú Đẹ ở Hải Dương. Đó là cô Phạm Thị Huệ - giảng viên dạy môn Tỳ Bà tại Nhạc Viện Hà Nội. Hiện cô là môn sinh chân truyền của hai “nghệ nhân dân gian”. Tôi vô cùng ngạc nhiên vì trong buổi mới học đàn với cụ Nguyễn Phú Đẹ, tuy cô chưa biết đàn Đáy mà đã lập lại được những câu Thầy mới đàn. Thầy ngạc nhiên và sau đó đã nhận cô làm học trò chính thức. Thầy nhiều lần đã khen cô có bàn tay vàng, học mau, nhớ lâu. Trong một buổi mạn đàm với Giáo Sư Trần Văn Khê, Thầy Nguyễn Phú Đẹ đã nói mấy câu: “Con bé này học rất mau. Mình mới đàn cho nó nghe một câu nào thì nó đã “cướp” mất câu đó của mình rồi. Tôi đã dạy nhiều học trò mà chưa gặp được đứa nào có tiếng đàn giống tiếng đàn của tôi như cô này. Tôi rất vui vì nghĩ rằng sau này dầu không còn trên đời này nữa đã có người giữ được tiếng đàn và cách đàn của tôi”.
                                      Phạm Thị Huệ đờn Đáy
Riêng tôi, chưa bao giờ tôi được một nghệ sĩ thuộc về phe nữ, trẻ và đẹp, có sắc lại có tài cho tôi phát âm ra được những tiếng đàn vừa gân guốc, vừa bay bướm như cô Phạm Thị Huệ. Cô không phải chỉ học cho biết qua loa, thỏa tánh hiếu kỳ, mà cô quyết tâm học đến nơi đến chốn với cả tâm và trí của mình.
                             Phạm Thị Huệ và hai người Thầy
Sau khi được hai Thầy cho làm lễ “mở xiêm áo”, cô vẫn tiếp tục học với hai Thầy, đồng thời trao lại tiếng đàn đó cho tuổi trẻ. Cô lại giới thiệu nghệ thuật Ca Trù, cách hát, cách đàn và cầm chầu cho những thính giả thanh niên các giới, nhất là cho học sinh, sinh viên. Trong một buổi giới thiệu định kỳ về nghệ thuật Ca Trù của nhóm Thăng Long do cô lập ra, dưới sự hỗ trợ của hai Thầy và nhiều chuyên gia nghiên cứu Ca Trù, cô có cho một cô học trò rất trẻ ôm đàn Đáy để phụ hoạ cho một bài hát. Tôi sung sướng, rung động dưới bàn tay non nớt của cô bé đó và lòng tràn đầy niềm tin rằng từ đây tôi sẽ không còn sợ bị chìm trong quên lãng.
                   Các ca nương trẻ của nghệ thuật Ca Trù
Lớp học đàn Đáy CLB. Ca Trù Thăng Long với cụ Nguyễn Phú Đẹ và các bạn trẻ
Một thành viên nữ trẻ gảy đàn Đáy của CLB Ca Trù Thăng Long "ra mắt" khán thính giả
Các nhà đóng đàn từ mấy năm sau nầy được người mới học và cả nghệ nhân đặt đóng đàn nhiều hơn trước. Những cây đàn Đáy mới được đóng cẩn thận, chạm trổ khéo, nhưng hình như chưa có cây nào có thể sánh được với những cây đàn cổ ngày xưa về mặt âm thanh?
Dẫu sao, tôi cũng rất lạc quan vì thấy nghệ thuật Ca Trù đang có được một nguồn sinh lực mới. Mấy năm gần đây, tôi được nhiều thanh niên, cả thiếu nữ, nâng niu tôi, bỏ thời gian học cách sử dụng đàn Đáy một cách nghiêm túc. Mong rằng ngọn lửa trong tim của các thanh niên thiếu nữ ấy sẽ không phải là ngọn lửa “rơm” bộc phát bộc tàn, mà là ngọn lửa thiêng sẽ cháy mãi, cháy bừng với thời gian!
Các bạn ơi! Tôi đã hết “mặc cảm tự ti” rồi! Và chỉ mong rằng trong những ngày tới đây tôi sẽ được các nhạc sĩ miền Trung, miền Namnước Việt tìm nghe và học tập. Tôi xin cám ơn các bạn đã chịu khó nghe những lời tâm sự của tôi. Xin đọc tặng các bạn 4 câu thơ mà nhà thơ Nguyễn Hải Phương đã viết về tôi:
“Tên Em như có mà không
Ba dây dẫn sóng trăm sông về nguồn
Ca trù đổ hột phách giòn
Tuổi phai xanh, chạm tiếng đờn lại xanh!”
GSTS Trần Văn Khê
Bình Thạnh, Hè Quý Hợi
29.07.2007                      

PHẠM THÀNH NHÂN : GS Trần Văn Khê / Nhạc Việt và ý chí độc lập dân tộc


Nhạc Việt và ý chí độc lập dân tộc


Lịch sử không phải những kiến thức khô khan, giáo điều. Trong các bộ môn nghệ thuật gần gũi với cuộc sống như âm nhạc, hội họa, thi ca..., tiền nhân luôn gửi đến chúng ta những câu chuyện thú vị và ẩn chứa nhiều bài học.
Trò chuyện với Tuổi Trẻ về lịch sử từ góc tiếp cận âm nhạc, GS.TS Trần Văn Khê cứ đau đáu về việc làm sao để những thông điệp từ quá khứ được gửi gắm vào hiện tại...
Tiếng trống đồng từ thuở sơ khai
* Xin GS bắt đầu từ buổi sơ khai của nhạc Việt. Âm nhạc của chúng ta khi ấy ra sao?
- Nếu xét lịch sử từ thời kỳ cổ đại thì chúng ta thuộc các dân tộc vùng Đông Nam Á chứ không phải vùng Đông Á. Văn hóa của vùng này là văn hóa đồng thau nên tất cả nhạc khí quan trọng nhất đều là những nhạc khí bằng đồng.
Tiêu biểu ta có trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Đông Sơn là thời kỳ người Trung Quốc chưa xâm lấn nước ta. Những hình chạm trên mặt trống đồng Ngọc Lũ không hề có nhạc cụ nào có dây tơ hay sáo vốn là đặc trưng của văn hóa ty trúc mà chỉ có những cây khèn, sênh gõ và những dàn cồng.
Nghĩa là từ thuở sơ khai, người Việt thuộc nền văn hóa đồng thau, khác với văn hóa ty trúc cho đến khi bị xâm lấn, cai trị dưới chính sách đồng hóa văn hóa của Trung Quốc.
Trên chân cột chùa Phật Tích (chùa Vạn Phúc, Bắc Ninh) có chạm hình của những nhạc công thời nhà Lý. Vua Lý Thái Tổ vốn được sinh trong chùa và trong triều đại này Phật giáo là quốc giáo nên nhạc công trong chùa cũng có thể là nhạc công cung đình.
Trong dàn nhạc này có chạm cây sênh, có sáo ngang, sáo dọc, đàn tranh, đàn nhị, có cây đàn giống như đàn nguyệt nhưng lại chỉ có ba dây và có cả đàn tỳ bà như những cây đàn tỳ bà ở động Đôn Hoàng bên Trung Quốc.
Đây chính là ảnh hưởng rõ ràng của Trung Quốc sau cả ngàn năm cố gắng đồng hóa người Việt.
Đến đời nhà Trần, theo sách An Nam chí lược của Lê Tắc thì âm nhạc VN chia thành đại nhạc dành cho nhà vua và tiểu nhạc dành cho quan lại, dân gian. Trong dàn đại nhạc có sự xuất hiện của kèn tất lật (kèn pili) của nhà Đường, có trống phạn cổ, tức trống cơm xuất xứ từ Chiêm Thành. Tức là dù Bắc thuộc, ta vẫn tiếp thu những nền văn hóa khác nhau để chắt lọc ra những nét tinh túy nhất.
Thời này chúng ta chứng kiến tình thương dân, tầm nhìn chiến lược, tài chính trị, ngoại giao của đức vua Trần Nhân Tông. Sự liên kết với Chiêm Thành là để tạo ra một lực lượng đối kháng với quân Nguyên. Nhà vua biết rằng mộng thôn tính nước ta của giặc Nguyên vẫn còn đó dù đã bị đức thánh Trần Hưng Đạo đánh tan tành. Chính từ sau cuộc hôn nhân của Huyền Trân công chúa, văn hóa Việt đã có nhiều sự giao hòa với văn hóa Champa.
Tại Huế có hơi Nam, hơi Oán giống như của người Chăm. Phụ họa cho bài dân ca Ai nhiu lơi của người Chăm là cây đàn cà-ting giống như cây đàn bầu của người Việt. Theo sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn có nhắc đến sứ nhà Nguyên khi sang VN có thấy cây đàn nhất huyền cầm (đàn bầu). Trong bài tường thuật của sứ nhà Nguyên cũng có nói đến chuyện sứ nghe tiếng trống đồng mà sợ đến rụng rời, muốn bạc tóc.
Những thời kỳ rực rỡ của nhạc Việt
* Thưa GS, qua nhiều thời kỳ của âm nhạc VN, GS cho rằng thời kỳ nào là rực rỡ nhất?
- Hãy để tôi nói với các bạn về âm nhạc đời nhà Lê. Sau khi vua Lê Thái Tổ - Lê Lợi chiến thắng giặc Minh, nhà vua bèn giao cho Nguyễn Trãi nghiên cứu và định ra các qui chuẩn cho nhạc cung đình Việt.
Chưa có người nào thuộc giới văn nhân làm quan nói chuyện âm nhạc sâu sắc bằng cụ Nguyễn Trãi. Cụ nói: "Nếu nhân dân không được sung sướng, hạnh phúc thì âm nhạc sẽ ai oán buồn, tức là ta đã mất cái gốc của âm nhạc. Xin bệ hạ hãy nuôi dân, thương dân, để cho trong nước đừng có tiếng ta thán thì ta không mất cái gốc của mình vậy".
Chính cụ Nguyễn Trãi là người đầu tiên nói rằng trong âm nhạc có hình thức bên ngoài, tức nhạc cụ, cách ăn mặc, cách biểu diễn... và cái gốc là tâm trạng đưa ra. Cụ muốn mọi người dân đều hạnh phúc để không có âm ta thán vang lên trong tiếng nhạc.Với cụ Nguyễn Trãi, gốc của âm nhạc chính là nhân dân.
Đến thời vua Lê Thánh Tông, điểm đặc biệt là dần dần giáo phường của dân gian lại lấn vào cả đồng văn, nhã nhạc, nghĩa là sức ảnh hưởng của nhân dân đã đi vào cả nhã nhạc cung đình. Đầu thế kỷ 15, một mặt có những người trong chính quyền vọng ngoại, muốn đem nhạc nhà Minh vào nhạc Việt nhưng cũng có những người như cụ Nguyễn Trãi, Lương Thế Vinh đã chống lại hành động này.
Âm nhạc đến thế kỷ 15 có một sự thay đổi rất lớn. Thay đổi này thật ra không chỉ riêng ở VN mà ở nhiều nước khác cũng nổi lên phong trào xây dựng bản sắc dân tộc. Chẳng hạn ở Triều Tiên, vua Sejong không bằng lòng dùng chữ Hán mà định ra chữ viết riêng cho nước này, thay đổi cả âm nhạc vì không muốn chịu sự ảnh hưởng từ Trung Quốc.
Các samurai Nhật Bản cũng chế ra nhạc sarugaku, dengaku và sau này trở thành kiểu kịch nô. Tất cả những điều đó nhằm chống lại sự bành trướng từ bên ngoài. Cũng thời gian này ở miền Bắc xuất hiện ca trù - thể loại nhạc đặc sắc chỉ của riêng VN và cây đàn đáy.
Theo sách Khâm định Đại Thanh hội điển sự lệ của Trung Quốc, sau khi thắng trận Đống Đa, vua Quang Trung (do một vị triều thần đi thay) sang thăm Càn Long, một dàn nhạc của VN tham gia diễn tấu.
Biên chế của dàn nhạc ấy hoàn toàn giống với biên chế dàn nhã nhạc của chúng ta hiện giờ. Biên chế này nhà Thanh gọi là An Nam quốc nhạc. Sau này khi vua Gia Long lên ngôi, đổi tên nước là VN, dàn nhạc này được gọi là VN quốc nhạc.
PHẠM THÀNH NHÂN (báo Tuổi Trẻ)
Nhạc sử: vấn đề lớn còn bỏ ngỏ
Sự phát triển của âm nhạc VN gắn liền với những sự kiện lịch sử, qua những cuộc trao đổi văn hóa, chịu ảnh hưởng văn hóa. Nhưng dù chịu ảnh hưởng, dù bị cố đồng hóa, âm nhạc Việt Nam vẫn tạo được bản sắc riêng của mình để tiếp tục tiến đến ngày hôm nay. Những cây đàn bầu, đàn đáy, đàn nguyệt Việt Nam hay ca trù, tuồng, bài chòi, chầu văn, nhạc tài tử, cải lương... cho thấy ý chí độc lập của dân tộc ta vững bền qua hàng ngàn năm lịch sử và tôi tin rằng sẽ còn mãi vững bền. Tìm hiểu nhạc sử cũng là một vấn đề lớn mà chúng ta còn bỏ ngỏ. (GS Trần Văn Khê)

Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

N.BÁ : Ca khúc về mùa đông được phổ biến sớm nhất


Đề xuất kỷ lục / Danh mục đề xuất



Ca khúc về mùa đông được phổ biến sớm nhất
(ĐXKL) - Năm 1939, lúc đang học ở Hà Nội, đến 29 tết vẫn chưa có tiền để về với gia đình, nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương lang thang tới ga Hàng Cỏ nhìn mọi người mang xách lên tàu về quê, lòng ước gì chính mình được bước lên chuyến tàu cuối năm đó… Ca khúc "Đêm đông" ra đời trong hoàn cảnh ấy.

Cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương sinh năm 1919, tại Huế. Năm 1936, sau khi tốt nghiệp trung học tại trường Quốc Học Huế, ông viết ca khúc Trên sông Hương.Đến năm 1939, lúc đang học ở Hà Nội, đến 29 tết vẫn chưa có tiền để về với gia đình, ông lang thang tới ga Hàng Cỏ nhìn mọi người mang xách lên tàu về quê, lòng ước gì chính mình được bước lên chuyến tàu cuối năm đó… 
Từ tâm trạng riêng, ông nghĩ đến nhiều người khác phải xa nhà trong đêm giao thừa đêm đông - xa trông cố hương buồn lòng chinh phu - đêm đông - bên sông ngẩn ngơ kìa ai mong chồng… Hình ảnh chinh phu, chinh phụ trong Đêm đôngcó ảnh hưởng chút lãng mạn trong tiểu thuyết đương thời, ngược lại, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng xuất phát từ cảnh thực, đêm ấy, trên đường từ ga Hàng Cỏ về ông có rẽ vào xóm cô đầu ở Khiêm Thiên, lòng nghĩ rằng vào giao thừa chắc chẳng cô nào hành nghề cả, khi ngang qua một căn nhà còn để đèn, có bóng một cô gái bước ra chào mời, biết ông không phải là khách mua hoa, cô lộ vẻ buồn bã ra mặt rồi âm thầm quay vào. Về nhà (số 10 ngõ Hội Vũ cạnh nhà thương Phủ Doãn cũ), lên gác trọ, gió đêm ấy thổi mạnh vào khe cửa sổ tới khuya không dứt, ông viết: gió reo sầu miên - gió đau niềm riêng - gió than triền miên…
Người hát bài Đêm đông đầu tiên là nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết, người kế theo là chị Minh Trang (vợ cố nhạc sĩ Dương Thiệu Tước). Sau đó là nhiều ca sĩ khác, trong đó người trình bày Đêm đông mà nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương thích nhất là ca sĩ Bạch Yến.

Ngày nay, ca khúc Đêm đông vẫn còn được yêu thích. Tác giả qua đời năm 2002 tại TP.HCM.

N.Bá - kyluc.vn

NGUYỄN MẠNH HÀ : BẰNG KIỀU - NHẠC NÀO CŨNG NHẢY ?


Bằng Kiều - nhạc nào cũng nhảy?
TP - “Hình như khán giả đã thích mình thì mình hát nhạc gì khán giả cũng thích”, Bằng Kiều tâm sự trong chương trình Bằng Kiều in concert tại Hà Nội tối 28-10. Nhưng “hình như khán giả thích nhạc gì thì Bằng Kiều hát nhạc đấy” có lẽ sát với thực tế hơn.

BẰNG KIỀU và gia đình trần tình trên sân khấu Trung Tâm Hội Nghị quốc gia . Ảnh : N.M.HÀ

Không có lý do gì khiến chương trình hòa nhạc của Bằng Kiều tại Hà Nội không thành công. Một giọng hát hay và lạ trong một dòng nhạc an toàn chiều lòng số đông khán giả, ê-kip hàng đầu trong không gian hoành tráng bậc nhất.
Đầu đêm diễn, ca sĩ thông báo bị viêm họng nhưng nhờ cầu khẩn “ơn trên” nên đã ổn. Quả thực, nam danh ca hát càng về sau càng phong độ, làm khán giả thỏa mãn ở tất cả các nốt cao.
Chỉ một hai bài hát đầu là hơi run rẩy vì đó là bài về Hà Nội, còn ca sĩ thì không cầm được nước mắt. Chương trình đạt chuẩn âm thanh và ánh sáng, không có múa phụ họa hoặc kỹ xảo gì khác.
Thiết kế sân khấu kết hợp ánh sáng khá ấn tượng dù có vẻ hơi rối. Nói chung Bằng Kiều in concert đủ tầm thỏa mãn những ai thích Bằng Kiều.
Không chỉ gần với số đông về âm nhạc mà Bằng Kiều còn tỏ ra thân mật trong giao lưu. Giữa chương trình, anh đưa gia đình gồm có mẹ, vợ và 3 con trai lên sân khấu.
Mẹ anh nói những lời cảm ơn chân tình tuy hơi dài gửi đến những người thầy của con trai và khán giả. Sau khi tặng mẹ một bó hoa “vớt vát” 20-10 (ngày lễ mà lần đầu tiên anh biết đến), Bằng Kiều tặng hoa hồng và nhẫn cho vợ kỷ niệm 10 năm ngày cưới.
Trizzi Phương Trinh không nói gì, chỉ rưng rưng cảm động. Khán giả được thể, tỏ ra suồng sã: “Hôn đi! Hôn đi!”. Bằng Kiều hôn con. Khán giả (giọng nữ): “Hôn vợ cơ mà!”.
Ngoài việc là ngôi sao của đại chúng, một lý do có thể khiến việc Bằng Kiều khoe gia đình trở nên có ý nghĩa. Đó là hoàn cảnh khá đặc biệt của anh: Một người con Hà Nội trở về sau thời gian dài xa cách.
Cũng có thể sự lâu trở về của Kiều khiến cho tình cảm khán giả Hà Nội dành cho anh thêm mặn nồng. Phổ biến tình trạng Bằng Kiều vừa hát một câu (cũng chả cần có nốt nào cao), khán giả đã vỗ tay tán thưởng.
Hình ảnh đáng nhớ của chương trình là khi Mỹ Linh yêu cầu khán giả thắp điện thoại di động để tạo thành một trời sao trên mặt đất khi cô cùng Bằng Kiều song ca Trái tim không ngủ yên.
Bằng Kiều nói cảm ơn Mỹ Linh vì nhờ bài song ca này, mà anh bước chân vào nghề ca sĩ. “Không có em thì không có anh”, Kiều nhấn mạnh.
Mỹ Linh cho hay, lần nào hát cùng nhau (ở hải ngoại), Kiều cũng cảm ơn chị về việc này nhưng chị không dám nhận, cho rằng Bằng Kiều nổi tiếng là do cái duyên của chính anh.
Nhiều người cứ “chê” Bằng Kiều cũ quá, nhưng thực ra mà nói, anh thức thời. Cứ cái gì khán giả thích thì dù cũ dù mới anh đều hát hết.
Dù sao anh cũng là một ca sĩ có giọng riêng và chính nó làm cho anh có phong cách riêng. Cũng có thể nói rằng anh đã có công làm mới, “làm khó” một số bài hát xưa.
Những bài như Phút cuối, Buồn ơi chào mi… vốn đã trở nên nhàm, dễ nghe, dễ hát qua những giọng hát quen thuộc nay được thổi vào một luồng hơi mới, thách thức hơn - luồng hơi của Bằng Kiều.
Có thể thấy Bằng Kiều khá thận trọng trong lựa chọn bài để hát. Hầu như những bài Bằng Kiều đã hát đều được đón nhận. Đó có thể là bài hát mới nhưng thường “chất” không có gì mới.
Một số người tiếc rẻ với chất liệu giọng ấy, nếu Bằng Kiều sử dụng để sáng tạo những thứ mới mẻ, phá cách hơn thì sẽ còn hay hơn; rồi Bằng Kiều đã quá dễ dàng thỏa hiệp với khán giả ở nơi mới.
Thực ra chẳng riêng gì Bằng Kiều mà hầu như bất cứ giọng hát đã có danh trong nước nào sang hải ngoại thì đều mang phong cách hải ngoại cả. Cũng phải thông cảm cho họ vì “ở bển” không dễ dàng gì để có một đời sống âm nhạc phong phú khi ca sĩ chỉ hát vào cuối tuần cho một lượng khán giả khép kín.
Nếu ca sĩ không nhanh chóng thích nghi sẽ không có cơ hội để làm lại. Mà thực ra có mấy ca sĩ trong nước (nhất là cùng lứa với Bằng Kiều) có thể tự hào mình có cá tính sáng tạo, có khả năng định hướng khán giả?
Khán giả ở đâu thì cũng có độ bảo thủ tương đồng. Bằng chứng là khán giả Việt Nam không phân biệt trong hay ngoài nước đều có không ít “thần tượng” chung.
Theo Mỹ Linh thì không phải chị không làm được những album nhạc xưa nhưng ca sĩ thời nào thì nên hát nhạc thời đấy: “Nếu cứ hoài cổ để nhạc xưa chiếm lĩnh thị trường thì quả là vô lý. Nhạc xưa hay nhưng không thể hay mãi mãi và nhạc Việt không chỉ có thế. Nếu cứ thế thì nền âm nhạc trở nên tàn tật, không phát triển và rồi thế hệ trẻ sẽ chỉ nghe nhạc ngoại”.
Bằng Kiều thì lại là một ví dụ cho việc “ca sĩ ở đâu hát nhạc ở đấy”. Trong lần về nước hòa nhạc này, Kiều hát lại một số bài thời Làn sóng xanh mà anh gọi là thời “nhạc Việt lên ngôi” và một số thể loại anh sẽ không hát ở hải ngoại như Phú Quang.
Chắc hẳn nếu về nước “làm ăn” thường xuyên hơn, thực đơn âm nhạc của anh sẽ lại thay đổi.
N.M.Hà

TH.LỘC : Lệ Thu biểu diễn và giao lưu tại Huế


Thứ Hai, 29/10/2012, 03:10 (GMT+7)
Lệ Thu biểu diễn và giao lưu tại Huế
TT - Trung tâm văn hóa Phương Nam - làng nghề Huế vừa cho biết danh ca hải ngoại Lệ Thu sẽ biểu diễn và giao lưu với công chúng Huế tại Cà phê sách Phương Nam (15 Lê Lợi, TP Huế) vào 20g ngày 9-11.

Ca sĩ LỆ THU  - ảnh Gia Tiến


Bằng giọng ca đầy ắp kỷ niệm và tràn đầy tình cảm, ca sĩ Lệ Thu sẽ trình bày những bài hát gắn liền với tên tuổi mình như: Hẹn hò, Em lễ chùa này (Phạm Duy), Biển nhớ, Hạ trắng (Trịnh Công Sơn), Chiếc lá cuối cùng (Tuấn Khanh), Bài tình ca mùa đông (Trầm Tử Thiêng), Anh cho em mùa xuân (Nguyễn Hiền),Ảo ảnh, Đồi thông (Y Vân)...
Ngoài ra, một trong những giọng ca hát tình khúc hay nhất của nền tân nhạc VN còn trực tiếp giao lưu với khán giả về chuyện đời, chuyện nghề của mình.
TH.LỘC

LINH ĐOAN : Cải lương loay hoay làm mới


Thứ Hai, 29/10/2012, 07:05 (GMT+7)
Cải lương loay hoay làm mới
TT - Tính tới tối 28-10, 17 vở diễn đã được trình làng trong Liên hoan sân khấu cải lương chuyên nghiệp toàn quốc 2012 tại Đồng Nai.

Hơn nửa chặng đường đã đi qua, diện mạo sân khấu cải lương cả nước cũng đang dần lộ diện.


Vở Mê cung (tác giả: Hoàng Song Việt - Triệu Trung Kiên, đạo diễn: NSƯT Triệu Trung Kiên) của Nhà hát cải lương VN phản ánh nỗi niềm của những người có HIV, gái điếm, trai bao, chuyện lấy chồng Hàn Quốc... - Ảnh: Nguyễn Lộc

Trái với lo ngại của nhiều người, trong tám ngày vừa diễn ra liên hoan, khán giả Đồng Nai không đến nỗi thờ ơ với cải lương. Suất diễn nào cũng có khán giả, ít nhất kín nửa rạp, suất tối đông hơn suất sáng và hiếm khi nào xảy ra tình trạng vắng hoe. Mừng là có những khán giả đến một lần, sau đó đến thêm lần hai, lần ba, nhưng đa số là khán giả trung niên và người già, rất ít khán giả trẻ.
Cải lương vay mượn kịch bản kịch nói
"Có đến hơn 90% vở diễn cải lương phía Bắc hiện nay được chuyển thể từ kịch bản kịch nói vì có quá ít người viết kịch bản cải lương"
NSƯT Triệu Trung Kiên(trưởng đoàn 1 Nhà hát cải lương VN)
Trong số 27 vở diễn tham gia liên hoan lần này (từ ngày 20-10 đến 3-11), điều khiến nhiều người e ngại là có hơn 2/3 số lượng kịch bản cải lương được chuyển thể từ kịch bản kịch nói, có thể kể ra như: Vượt qua tâm bão(Đoàn nghệ thuật cải lương Đồng Nai), Khi hoa nở trái mùa, Mong gió đừng đổi chiều (Nhà hát cải lương Hà Nội), Nói dối là trọng tội (Đoàn nghệ thuật Tây Ninh), Tiếng vạc sành (Nhà hát cải lương Trần Hữu Trang), Một phút một thời (Đoàn cải lương Hương Tràm), Vú cát (Nhà hát cải lương VN), Biển và bờ (Đoàn cải lương Hải Phòng), Giậu mùng tơi gãy giập(Đoàn nghệ thuật cải lương Nam Định), Cơn hồng thủy (CLB cải lương xã hội hóa Sen Việt trực thuộc Trường ĐH Sân khấu và điện ảnh TP.HCM)...
NSƯT Minh Hoàng - trưởng Đoàn cải lương Hương Tràm - buồn bã bày tỏ: “Có khá nhiều kịch bản kịch nói có nội dung tốt, được viết cô đọng và chặt chẽ trong khi nhiều kịch bản cải lương lại dài dòng, lê thê và thiếu logic. Cải lương đang xuống dốc nên rất nhiều người viết không mặn mà. Viết một kịch bản cải lương rất mất thời gian và phải am hiểu về loại hình này. Khi viết xong rồi cũng không có mấy đoàn chịu dựng, nếu họ chịu dựng thì bán đứt kịch bản chẳng bao nhiêu tiền mà hưởng theo 5% mỗi suất diễn thì càng chết, vì một vở cải lương hiện diễn chẳng được bao nhiêu suất!”.
Có thể nói tác giả trẻ hiếm hoi phía Bắc còn miệt mài viết kịch bản cải lương là NSƯT Triệu Trung Kiên - trưởng đoàn 1 Nhà hát cải lương VN, từng gây dấu ấn ở các hội diễn cải lương trước đây với những vở do anh viết kịch bản và dàn dựng như Dấu ấn giao thời, Đế đô sóng cả. Đến với liên hoan lần này, anh đem theo vở Mê cung (tác giả: Hoàng Song Việt - Triệu Trung Kiên) cũng được xem là “hàng hiếm” vì đây là kịch bản được viết dành cho cải lương. Trung Kiên khẳng định: “Có đến hơn 90% vở diễn cải lương phía Bắc hiện nay được chuyển thể từ kịch bản kịch nói vì có quá ít người viết kịch bản cải lương. Tôi hiện đang viết một kịch bản lịch sử nhưng chọn viết kịch bản kịch trước, sau đó mới chuyển thể cải lương, cốt là để cho các loại hình khác cũng có thể sử dụng được kịch bản của mình”.
Cải lương đang rất cần những kịch bản dành cho chính cải lương, khai thác hết những tinh túy, đặc sắc của loại hình này, nếu phải chịu cảnh “vay mượn” thế này, chẳng biết cải lương sẽ về đâu?
Lúng túng với đề tài xã hội, đương đại
Cái khó cho kịch bản cải lương năm nay còn là tiêu chí “tác phẩm tham dự liên hoan là những tác phẩm về đề tài hiện đại”. Không ít vở diễn đã thể hiện sự lúng túng trong cách thể hiện đề tài đương đại. Món nợ vùng ven (Nhà hát Tây Đô, Cần Thơ), Ma lực đồng tiền (Đoàn cải lương Ánh Hồng, Trà Vinh) có cách giải quyết mâu thuẫn khá sớm khiến khán giả không còn tâm lý chờ đợi những màn sau. Vượt qua tâm bão, Giậu mùng tơi gãy giập, Biển và bờ... dàn dựng thiếu kịch tính. Rất nhiều diễn viên còn mắc lỗi diễn xuất cường điệu, diễn vở tâm lý xã hội nhưng thiếu tiết chế khiến người xem có cảm giác họ đang diễn... tuồng cổ!
Dù vậy, tính đến thời điểm này đã có một vài vở diễn tạo được chú ý như Tiếng vạc sành, Vú cát, Mê cung... Khi hoa nở trái mùa phần đầu còn khiên cưỡng nhưng kịp ghi điểm ở màn cuối rất xúc động. Chị Mỹ - công tác ở Công ty Sonadezi, tranh thủ đi xem một số vở diễn - bày tỏ: “Tôi bất ngờ vì cách dàn dựng khá tốt của một số đoàn cải lương phía Bắc. Miền Nam được xem là cái nôi của cải lương, nhưng nếu mình cứ chủ quan là coi chừng thua đó!”.
Phong cách dựng vở khá hiện đại, bớt lê thê và có kịch tính của một số đoàn phía Bắc như Nhà hát cải lương VN, Nhà hát cải lương Hà Nội có vẻ được nhiều khán giả trẻ tỏ ra thích thú. Tuy nhiên, vẫn còn những vở diễn mải mê xây dựng kịch tính mà quên yếu tố trữ tình, lãng mạn, mướt mát của cải lương. Có những đoạn thoại rất dài mà không có một câu vọng cổ hay bài bản nào, đạo diễn không chắc tay nên vở diễn bị phân cắt  khúc kịch, khúc cải lương!
Dựng cải lương theo kiểu cũ thì khán giả chê lạc hậu, không thật; dựng theo phong cách mới, hiện đại thì người ta lại thấy không giống cải lương! Như anh Nam - nhà ở Q.3, TP.HCM cất công xuống tận Đồng Nai xem liên hoan - nhận xét: “Xem vở Vú cát thấy hay, thấy đẹp đấy nhưng đôi lúc tôi có cảm giác như đang xem kịch!”. Lại một vấn đề đau đầu của cải lương: đổi mới làm sao, đổi mới như thế nào để cải lương vẫn đồng hành với cuộc sống đương đại mà không làm mất nét tinh túy, đặc sắc? Câu hỏi có lẽ vẫn còn đó sau một kỳ liên hoan.
Lạm dụng múa
Rất nhiều đoàn đã sử dụng các màn múa trong vở diễn để thể hiện màu sắc và sự “đương đại, hiện đại” của mình như: Mong gió đừng đổi chiều, Giọng hò Đồng Tháp, Giậu mùng tơi gãy giập, Khi hoa nở trái mùa, Ký ức mùa xuân... Tuy nhiên, rất ít màn múa thể hiện sự hài hòa, cần thiết cho vở diễn. Rất ít vở diễn biết cách biến múa thành một phần liền mạch và hỗ trợ đắc lực cho câu chuyện như Mê cung.